Các anthracyclin (bao gồm doxorubicin, epirubicin, daunorubicin và idarubicin) cùng các dẫn chất anthraquinon (như mitoxantron) là một trong các tác nhân hóa trị liệu có hiệu lực mạnh nhất, giữ vai trò nền tảng trong nhiều phác đồ điều trị ung thư, điển hình như bệnh bạch cầu lympho cấp tính ở trẻ em, bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính, ung thư hạch Hodgkin, sarcoma xương , u nguyên bào thần kinh và Ung thư vú. Mặc dù vậy, đã có ghi nhận tới 9% số bệnh nhân gặp các độc tính trên tim mạch liên quan đến nhóm hóa chất này. Anthracyclin cũng được coi là nguyên nhân hàng đầu dẫn tới độc tính trên tim do hóa trị liệu, điển hình là suy giảm chức năng thất trái (LVEF), nhịp nhanh thất, rung nhĩ, rung thất và kéo dài khoảng QT hiệu chỉnh (QTc).
1. Đặc điểm độc tính trên tim của anthracyclin
1.1. Tần suất ghi nhận biến cố trên tim của nhóm anthracyclin
Tỷ lệ mắc bệnh tim mạch và ung thư vú đều tăng theo tuổi. Theo CDC, Năm 2018 có 254.744 trường hợp ung thư vú mới được chẩn đoán ở phụ nữ ở Hoa Kỳ. Rủi ro mắc ung thư vú trong vòng đời của một phụ nữ là 2,4% ở tuổi 50 (1 trên 42), 3,54% ở tuổi 60 (1 trên 28) và 4,08% ở độ tuổi 70 (1 trên 24). Bệnh tim là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ Hoa Kỳ, dẫn đến 299.578 ca tử vong trong năm 2017 — tức là với mỗi năm ca tử vong ở phụ nữ thì có một ca tử vong do bệnh tim gây ra. Khoảng 68% phụ nữ ở tuổi 60 – 79 bị bệnh tim mạch, và tỷ lệ này tăng lên 85% ở những người trên 80 tuổi.Đặc trưng độc tính trên tim của các anthracyclin là độc tính mạn tính phụ thuộc liều, với hơn 98% bệnh nhân gặp độc tính có các triệu chứng rối loạn chức năng thất trái hoặc suy tim sau khi sử dụng thuốc trong vòng một năm. Đã có một số trường hợp ghi nhận độc tính khởi phát muộn, có thể biểu hiện sau một vài năm hoặc thậm chí nhiều thập kỉ. Chỉ có 1% số bệnh nhân sử dụng các anthracyclin gặp các độc tính cấp tính, thường liên quan đến các biến đổi trên điện tâm đồ, loạn nhịp (trên thất hoặc thất) hoặc rối loạn chức năng thất trái thoáng qua và có thể hồi phục sau khi ngừng thuốc. Tuy nhiên, chưa thật sự có biện pháp hữu hiệu nào để dự phòng hoặc quản lý các độc tính cấp tính này.
1.2. Cơ chế xuất hiện độc tính trên tim của anthracyclin
Anthracyclin thường được sử dụng trong điều trị Ung thư vú bao gồm doxorubicin và epirubicin. Anthracyclin gây tổn thương tế bào cơ tim bằng cách tạo ra các gốc oxy gây phản ứng peroxy hóa lipid do sự hình thành các phức hợp với sắt nội bào và stress oxy hóa ( ROS ). Anthracyclin có thể làm suy giảm con đường chuyển hóa sắt, dẫn đến tích tụ sắt trong tế bào cơ tim. Dự trữ sắt cao hơn có liên quan đến việc tăng nguy cơ nhiễm độc tim. Cơ chế thứ 2, ức chế topoisomerase II-beta trong tế bào cơ thúc đẩy phá vỡ mạch xoắn kép của ADN, dẫn đến việc kích hoạt quá trình chết theo chu trình của tế bào cơ tim. Bên cạnh đó, topoisomerase II-beta bị bám dính bởi doxorubicin gắn lên các gen chống oxy hóa và các kênh ion, ức chế các gen này phiên mã và làm giảm tổng hợp protein, kết quả là dẫn đến sự giảm phát triển ty thể tại tế bào cơ tim (Hình 1)
1.3. Các yếu tố nguy
cơ gây biến cố trên tim ở bệnh nhân điều trị Ung thư vú
Bệnh tim mạch và ung thư vú có chung một số yếu tố nguy cơ , những yếu tố này
bao gồm tuổi tác, chế độ ăn uống, béo phì, lối sống ít vận động và hút thuốc
lá. Rối loạn chức năng tim có thể xảy ra sau khi hóa trị liệu và xạ trị
vùng ngực. Tiền sử mắc bệnh tim mạch ảnh hưởng đến việc lựa chọn và liều
điều trị của nhóm Anthracyclin. Từ các hướng dẫn của Hiệp hội Tim mạch Châu Âu
(ESC 2016) và Hiệp hội Ung thư Nội khoa Châu Âu (ESMO 2017, 2020), đã tổng hợp
các yếu tố nguy cơ được xác định như trong bảng 1.
Bảng
1: Các yếu tố nguy cơ làm gia tăng độc tính trên tim khi sử dụng các
anthracyclin
Bệnh nhân có nguy cơ cao gặp độc tính tim mạch nếu có một trong các yếu tố: | Tổng liều tích lũy của anthracyclin cao (doxorubicin ≥ 250 mg/m2, epirubicin ≥ 600 mg/m2) Xạ trị liều cao vùng ngực và trung thất với liều ≥ 30Gy (tim nằm trong vùng chiếu xạ) Mắc bệnh lý tim mạch trước đó Cận lâm sàng: Troponin và/ NT-proBNP ≥ giới hạn bình thường trên Tổng liều tích lũy của anthracyclin thấp (doxorubicin < 250 mg/m2, epirubicin < 600 mg/m2), nhưng có thêm bất kỳ yếu tố nào trong số các yếu tố dưới đây: Tuổi ≥ 60 Xạ trị liều thấp vùng ngực và trung thất với liều < 30Gy (tim nằm trong vùng chiếu xạ) ≥ 2 yếu tố nguy cơ: hút thuốc lá, tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu, suy giảm chức năng thận và béo phì. |
Tổng liều tích lũy của anthracyclin là yếu tố nguy cơ đáng kể nhất đối với rối loạn chức năng tim, mối liên quan đã được chứng minh trong các nghiên cứu. Von Hoff và cộng sự, trong một phân tích hồi cứu, phát hiện ra rằng khi bệnh nhân nhận được một liều doxorubicin tích lũy ở 400, 550 và 700 mg/m2, tỷ lệ nhiễm độc tim tương ứng là 3%, 7% và 18% với các độc tính gây giới hạn liều dùng. Bên cạnh đó, một nghiên cứu lớn đã chứng minh rằng rối loạn chức năng thất trái (giảm phân suất tống máu so với mức bình thường > 10%). ESMO báo cáo LVEF giảm lần lượt là 7%, 16% và 20% ở liều doxorubicin 200 mg/m 2 , 400 mg/m 2 và 500 mg/m 2. Vì các anthracyclin khác nhau có nguy cơ gây độc tính trên tim khác nhau (0,9–48%), việc lựa chọn một tác nhân cụ thể có thể ảnh hưởng lớn đến kết quả điều trị.
Bảng
2: Tỷ lệ biến cố tim mạch đối với các anthracyclin
Hoạt chất – Liều dùng | Tỷ lệ xuất hiện suy tim |
Doxorubicin 400 mg/m2 550 mg/m2 700 mg/m2 |
3-5% 7-26% 18-48% |
Epirubicin (> 900 mg/m2) | 0,9-11,4% |
Idarubicin (> 90 mg/m2) | 5-18% |
Mitoxatrone (> 120 mg/m2) | 2,6% |
Các anthracyclin dạng liposom (> 900 mg/m2) | 2% |
2. Quản lý độc tính trên tim của hóa trị liệu nhóm anthracyclin
2.1. Điều chỉnh phác đồ chứa anthracyclin
Xác định liều tích lũy
Liều tích lũy suốt đời là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất ảnh hưởng đến độc tính
trên tim của anthracyclin. Do đó, khuyến cáo rằng liều tích lũy của
doxorubicin không được vượt quá 550 mg/m2. Nếu điều trị bằng
epirubicin, khuyến cáo về liều tích lũy không được vượt quá 900 mg/m2.
Bảng
3: Mức liều tích lũy tối đa của các anthracyclin
Thuốc | Mức liều tích lũy tối đa khuyến cáo |
Daunorubicin | 550 mg/m2 |
Doxorubicin | 550 mg/m2 |
Epirubicin | 900 mg/m2 |
Idarubicin | 150 mg/m2 |
Mitoxantron | 140 mg/m2 |
Lựa chọn phác đồ không chứa anthracyclin
Nguy cơ độc tính trên tim do anthracyclin nên được cân nhắc
với lợi ích của hóa trị liệu anthracyclin dựa trên tiên lượng của bệnh nhân và
lợi ích lâm sàng có thể có. Bệnh nhân bị suy tim, giảm phân suất tống máu
(LVEF), hoặc bệnh tim nặng không nên sử dụng anthracyclin nếu như có phác đồ
khác phù hợp hơn. Một nghiên cứu ngẫu nhiên ở 3222 phụ nữ ung thư vú giai đoạn
sớm, dương tính với HER-2 đã ghi nhận liệu trình với các nhóm thuốc không phải
anthracyclin vẫn cho hiệu quả điều trị tương đương và ít độc tính trên tim hơn.
Khi sử dụng liệu trình bao gồm docetaxel, carboplatin, và trastuzumab (TCH), bệnh
nhân có tỉ lệ sống còn và không tái phát bệnh trong vòng 5 năm là 81%, thấp hơn
so với 84% ở nhóm dùng phác đồ có anthracyclin (ACT: doxorubicin,
cyclophosphamid, docetaxel hoặc ACT-H: doxorubicin, cyclophosphamid, docetaxel,
trastuzumab). Đáng chú ý, phác đồ TCH có độc tính trên tim thấp hơn nhiều so với
ACT hay ACT-H. Vì vậy, TCH được đề nghị là phác đồ thay thế cho anthracyclin đối
với ung thư vú dương tính với HER-2 có bệnh lý nền tim mạch.
Thay đổi phác đồ truyền
Độc tính trên tim có thể được giảm thiểu bằng việc áp dụng chu kỳ hàng tuần
thay cho chu kỳ mỗi 3 tuần. Bên cạnh đó, các kết quả nghiên cứu ban đầu cũng đã
chứng minh rằng việc kéo dài thời gian truyền trong 48 đến 96 giờ dẫn đến ít tổn
thương cơ tim hơn khi sinh thiết cơ tim, giảm suy tim trên lâm sàng trong khi
tác dụng chống khối u vẫn được bảo tồn.
Sử dụng anthracyclin dạng liposom
Việc sử dụng doxorubicin liposomal (pegyl hóa hoặc
nonpegyl hóa) cho phép cung cấp một liều tích lũy lớn hơn. Một số thử
nghiệm lâm sàng đã xác nhận hiệu quả chống khối u tương đương hoặc gần như
tương đương và giảm độc tính trên tim đối với công thức liposom của
doxorubicin. Doxorubicin dạng
liposom đã được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) chấp thuận
cho ung thư vú di căn, ung thư buồng trứng di căn, đau tủy và sarcoma Kaposi
liên quan đến bệnh suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS). Tuy nhiên, so với các
anthracyclin truyền thống, việc sử dụng các công thức dạng liposom có liên
quan đến việc tăng nguy cơ viêm niêm mạc và chỉ có thể làm giảm mức độ chứ
không hoàn toàn loại trừ được nguy cơ nhiễm độc tim của nhóm hóa trị liệu này.
2.2. Dự phòng
2.2.1. Dexrazoxane
Dexrazoxane, một tác nhân chelat nội bào can thiệp vào quá trình tạo gốc tự do qua trung gian sắt, làm thay đổi cấu trúc của topoisomerase II-beta để can thiệp vào liên kết anthracyclin. Liệu pháp dexrazoxane ở bệnh nhân dùng doxorubicin hoặc epirubicin tác dụng có lợi đối với bệnh nhận bị suy tim hoặc giảm phân suất tống máu ( LVEF ) và đã được chứng minh làm giảm 65% các biến cố tim mạch, giảm 79 – 82% khả năng suy tim .
+ Chỉ định : Chỉ được sử dụng trên những bệnh nhân đã nhận được liều doxorubicin tích lũy là 300mg / m 2 và đang tiếp tục điều trị doxorubicin
+ Chống chỉ định : Hóa trị liệu pháp không phải nhóm Anthracyclin
Dexrazoxan được sử dụng trước doxorubicin nhằm giảm độc tính
tim với tỉ lệ liều của dexrazoxan:doxorubicin là 10:1 (dexrazoxan 500 mg/m2:
doxorubicin 50 mg/m2). Doxorubicin phải được dùng trong vòng 30
phút sau khi kết thúc truyền dexrazoxan.
2.2.2 Sử dụng các thuốc bảo vệ tim mạch
Một
số nhóm thuốc, bao gồm thuốc chẹn beta (BB), thuốc đối kháng hệ thống
renin-angiotensin-aldosterone (RAAS) và statin, đang được nghiên cứu về tác dụng
bảo vệ tim mạch và được ưu tiên để giảm nguy cơ nhiễm độc tim. Tuy nhiên vẫn cần
có các nghiên cứu sâu hơn để xác định lựa chọn bệnh nhân và phác đồ điều trị tối
ưu để ngăn ngừa độc tính hiệu quả.
Beta-Blockers
Dữ liệu về BB chỉ ra rằng tác dụng bảo vệ tim mạch trên LVEF tồn tại ít nhất 6 tháng khi tác nhân được bắt đầu trước khi điều trị bằng anthracyclin. Carvedilol, nebivolol, và candesartan là những BB đã chứng minh tác dụng có lợi trên chức năng tim mạch ở bệnh nhân Ung thư vú.
Một phân tích tổng hợp gần đây đánh giá tác dụng bảo vệ tim mạch của BB trong việc ngăn ngừa độc tính trên tim do anthracyclin cho thấy rằng việc sử dụng BB giúp LVEF tăng đáng kể so với giả dược. Phân tích cho thấy tác dụng có lợi của BB đối với chức năng tâm trương và đường kính thất trái tâm trương (LVEDD) nhưng chỉ có thông số LVEDD mang ý nghĩa thống kê và LVEDD có thể là một yếu tố nguy cơ gây đột tử.
Trong thử nghiệm lâm sàng lớn nhất (N = 200), việc sử dụng BB bảo vệ tim do độc tính của anthracyclin, carvedilol (liều tối đa 25 mg mỗi 8 giờ) không ảnh hưởng đến việc giảm LVEF sớm; tuy nhiên, nó làm giảm mức troponin I và rối loạn chức năng tâm trương, cho thấy tác dụng bảo vệ chống lại tổn thương cơ tim.
Phong tỏa RAAS
Một phân tích tổng hợp gần đây của các thử nghiệm có đối chứng kiểm tra việc sử dụng thuốc ức chế men chuyển (ACEI) và thuốc chẹn thụ thể angiotensin (ARB) trong việc ngăn ngừa độc tính trên tim do anthrcyclin đã chứng minh rằng những bệnh nhân được dùng RAAS để dự phòng LVEF tốt hơn mà không có bằng chứng về hạ huyết áp. Bằng chứng bổ sung chỉ ra rằng ACEI / ARB có thể làm giảm độc tính trên tim sau khi sử dụng anthracyclin.
ACEI có thể được kết hợp với dexrazoxane để giúp ngăn ngừa độc tính trên tim ở bệnh nhân Ung thư vú di căn đang dùng epirubicin. ACEI cũng có lợi khi kết hợp với doxorubicin để ngăn ngừa sự giảm LVEF. Spironolactone 25 mg / ngày dùng đồng thời với anthracyclin cho thấy tác dụng bảo vệ chức năng cơ tim tâm thu và tâm trương.
BBs / ACEIs / ARBs: Điều trị sớm bệnh cơ tim do anthracyclin với sự kết hợp của BB và tác nhân ngăn chặn RAAS có thể dẫn đến cải thiện LVEF; tuy nhiên, không phải lúc nào bệnh nhân cũng có thể trở lại chức năng LV ban đầu. Việc sử dụng các chất ức chế RAAS và BB và liều anthracyclin thấp hơn có liên quan đến khả năng phục hồi chức năng LV.
Liệu pháp kết hợp ACEI / BB đã được chứng minh là hữu ích để ngăn ngừa độc tính trên tim do anthracyclin ở phụ nữ lớn tuổi (66 tuổi trở lên), vì nó làm giảm 23% độc tính trên tim và 21% tử vong do mọi nguyên nhân. Bắt đầu điều trị bảo vệ tim mạch dưới 6 tháng sau khi điều trị bằng anthracyclin và duy trì trong thời gian dưới 6 tháng là có lợi nhất.
Một đánh giá có hệ thống và phân tích tổng hợp cho thấy rằng những bệnh nhân sử dụng liều anthracyclin tích lũy cao hơn được hưởng lợi nhiều nhất từ bảo vệ tim mạch BB và RAAS. Một phân tích tổng hợp khác, kiểm tra ước tính hiệu quả tổng hợp về lợi ích và tác hại tiềm ẩn của liệu pháp phối hợp BB / ACEI / ARB ở bệnh nhân Ung thư vú đang dùng anthracyclin, đã tìm thấy sự khác biệt thấp hơn đáng kể về sự thay đổi trung bình của LVEF ngay sau khi hóa trị [11]. Lợi ích bảo vệ tim mạch này vẫn tồn tại trong 12 tháng, và tỷ lệ mắc bệnh tim mạch đã giảm 88%. Tuy nhiên, liệu pháp phối hợp không ảnh hưởng đến thể tích cuối tâm thu hoặc cuối tâm trương.
Hướng dẫn của Hiệp hội
Tim mạch Canada về đánh giá và quản lý các biến chứng tim mạch trong quá trình
điều trị ung thư khuyến cáo rằng ACEIs, ARBs và BBs được sử dụng cho những bệnh
nhân có LVEF dưới 40%. Chúng cũng có thể được xem xét ở những bệnh nhân đã
giảm LVEF không có triệu chứng (ví dụ: LVEF giảm> 10% so với ban đầu) hoặc
người có LVEF giảm dưới 53% khi đang hóa trị. Tuyên bố Khoa học của AHA về
Ung thư vú và bệnh tim mạch khuyến nghị điều trị bệnh cơ tim do anthracyclin
theo hướng dẫn của Đại học Tim mạch Hoa Kỳ / Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ.
2.3. Theo dõi
Do độc tính trên tim của anthracyclin mang tính tích lũy cũng như có rất ít khả
năng phục hồi, việc theo dõi, phát hiện các dấu hiệu sớm và sàng lọc đối tượng
nguy cơ có vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, có nhiều điểm khác biệt trong các
khuyến cáo về phân loại yếu tố nguy cơ, giám sát (bao gồm cả việc sử dụng các
chỉ dấu sinh học của tim như troponin) cũng như các chỉ định dùng thuốc dự
phòng độc tính trên tim. Sơ đồ dưới đây là tổng hợp các hướng dẫn thực
hành gần đây của nhóm Thực hành về Tim mạch Ung thư, Cộng hòa Pháp về việc theo
dõi các độc tính trên tim mạch.
Thăm khám tim mạch ung thư , xét nghiêm BNP hoặc NT-pro BNP và Troponin trước khi bắt đầu điều trị |
-BN có LVEF < 40%, anthracyclin không được khuyến cáo sử dụng ngoại trừ không có lựa chọn thay thế hiệu quả -BN có 50% > LVEF ≥ 40%; khuyến cáo sử dụng ACEi(hoặc ARB) và/hoặc BB trước khi điều trị + BN Ung thư vú tiến triển hoặc di căn đã nhận liều tích lũy đối với doxorubicin > 300mg/m2 và có lợi ích khi tiếp tục sử dụng phác đồ anthraycyclin: xem xét sử dụng dexrazoxan + BN sử dụng nhiều thuốc gây độc tim hoặc có nhiều yếu tố nguy cơ độc tính tim xem xét sử dụng ACEi (hoặc ARB) và/hoặc BB |
Liều tích lũy doxorubicin ≥ 250mg/m2 hoặc epirubicin ≥ 600mg/m2 | Liều tích lũy doxorubicin < 250mg/m2 hoặc epirubicin < 600mg/m2 |
Thăm khám tinh mạch ung thư trước mỗi chu kỳ và xét nghiệm Troponin sau mỗi chu kỳ | Nếu có bất kỳ yếu tố nguy cơ nào gây tăng độc tính (theo Bảng 1) |
Có Không
Xét nghiệm troponin sau mỗi chu kỳ |
Có Không
Triệu chứng của bệnh tim mạch hoặc tăng Troponin |
Thăm khám tim mạch ung thư trước chu kỳ tiếp theo và giám sát phù hợp với từng trường hợp | Thăm khám tim mạch ung thư sau đợt điều trị, sau 6 tháng, sau 1 năm, 2 năm và định kì vào những năm tiếp theo |
Sơ đồ 1: Đánh giá nguy cơ và theo dõi biến cố tim mạch do anthracyclin
Trong đó việc thăm khám tim mạch ung thư bao gồm ít nhất 01 lần khám với:
- Thăm khám lâm sàng (bao gồm cả đo huyết áp)
- Điện tâm đồ
- Xác định glucose máu, lipid máu, mức lọc cầu thận
- Siêu âm tim bao gồm cả phép đo LVEF (lý tưởng nhất là kỹ thuật 3D, hoặc tối thiểu là 2D-Simpson sửa đổi) và đo biến dạng toàn bộ thì tâm thu theo trục dọc (GLS). Trong trường hợp không định lượng GLS, sử dụng chế độ M-mode để đánh giá phân suất tống máu trong siêu âm tim và/ hoặc vận tốc đỉnh tâm thu Dopple mô của vòng van 2 lá
- Dùng chất cản quang cho thất trái có thể hữu ích trong siêu âm tim 2 chiều.
- Chụp cộng hưởng từ được khuyến cáo nếu chất lượng của siêu âm tim dưới mức tối ưu.
2.4. Điều trị
Bệnh nhân rối loạn chức năng tim liên quan đến điều trị ung thư vú (có triệu chứng hoặc không có triệu chứng) được hưởng lợi từ việc sử dụng sớm các thuốc ACEi/ ARB hoặc BB. Việc điều trị ở những bệnh nhân không có triệu chứng có giảm biến dạng toàn bộ thì tâm thu theo trục dọc (GLS), nhưng không giảm LVEF, vẫn còn nhiều tranh cãi. Thực tế, định nghĩa về độc tính tim liên quan đến điều trị ung thư cũng còn rất khác biệt giữa các khuyến cáo, tuy nhiên, nhìn chung, rối loạn chức năng tâm thu thất trái được xác định bởi “sự giảm LVEF ≥ 10% cho tới giá trị < 50% hoặc LVEF giảm >20%”. Khuyến cáo quản lý biến cố sẽ phụ thuộc vào việc có hay không xuất hiện các triệu chứng suy tim hoặc giảm LVEF, được tổng hợp theo sơ đồ dưới đây:
Bên cạnh đó theo Hiệp hội Ung thư Nội khoa Châu Âu, hình ảnh biến dạng cơ tim có thể tạo điều kiện phát hiện sớm các rối loạn chức năng tim cận lâm sàng, định dạng biến dạng toàn bộ thì tâm thu theo trục dọc (GLS) giảm trên siêu âm tim có thể dự báo tình trạng nhiễm độc tim do anthracyclin sau đó 3 đến 6 tháng. Phát hiện này có thể cung cấp một cơ hội bắt đầu liệu pháp bảo vệ tim sớm, trước khi ghi nhận sự giảm LVEF, xảy ra ở 6% đến 8% số bệnh nhân được điều trị bằng anthracyclin. Do đó, Hiệp hội Ung thư Nội khoa Châu Âu đã đưa ra định nghĩa sử dụng GLS là một tiêu chuẩn cận lâm sàng cho xác định độc tính tim thông qua siêu âm tim. Các khuyến cáo về việc phân loại và xử trí trên các đối tượng ghi nhận độc tính trên tim cận lâm sàng được trình bày như sau:
RỐI LOẠN CHỨC NĂNG TIM CẬN LÂM SÀNG Troponin tăng (≥ 99% giới hạn trên của giá trị bình thường) và/hoặc giảm tuyệt đối GLS≥5% hoặc giảm tương đương đối GLS ≥ 12%) |
Kiểm tra và điều trị các bệnh lý liên quan (bệnh mạch vành, cường giáp… |
Troponin tăng và Giảm tuyệt đối GLS ≥ 5% và/ hoặc giảm tương đối GLS ≥ 12% |
Thăm khám tim mạch ung thư trước khi truyền đợt tiếp theo (sau 3 tuần) |
Bắt đầu/Cân nhắc sử dụng ACEi và/ hoặc BB* Tham khám tim mạch ung thư sau 3 tuần và sau mỗi 3 tháng nếu như không có triệu chứng tim mạch khác |
Sơ đồ 3: Giám sát và xử trí với trường hợp rối loạn chức năng tim cận lâm sàng
(*) Mức độ bằng chứng thấp
Tại Việt Nam, mặc dù chưa có thuốc dự phòng đặc hiệu biến cố tim mạch do anthracyclin (thuốc dexrazoxan), một số biện pháp nhằm giảm nguy cơ độc tính trên tim có thể được áp dụng như sử dụng các thuốc bảo vệ tim (ACEi hoặc ARB hoặc BB), chuyển sang truyền liên tục kéo dài từ 48-96 giờ và cân nhắc sử dụng liều hàng tuần thay cho chu kì mỗi 3 tuần. Doxorubicin dạng liposom cũng nên được cân nhắc sử dụng cho những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ cao, đặc biệt là đã có các bệnh lý tim mạch từ trước. Mặc dù vậy, so với thuốc doxorubicin thông thường, dạng liposom hiện nay chỉ được Bảo hiểm y tế chi trả 50%. Do không thể hoàn toàn loại trừ được nguy cơ nhiễm độc tim, quan trọng nhất là cần chú trọng đến việc phân loại đánh giá nguy cơ trước – trong điều trị, giám sát chặt chẽ và tư vấn cho bệnh nhân sử dụng anthracyclin
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Link:
1.https://www.uspharmacist.com/article/breast-cancer-and-cardiovascular-disease-risk
2. http://hnhpa.com/linh-vuc/duoc-lam-sang/thong-tin-thuoc-canh-giac-duoc/quan-ly-%C4%91oc-tinh-tren-tim-cua-hoa-tri-lieu-nhom-an.aspx