Ung thư đường mật (BTC) là một bệnh lý ác tính hiếm gặp, chiếm khoảng 3% trong tổng số các trường hợp ung thư đường tiêu hóa. Tỷ lệ mắc bệnh trên thế giới dao động từ 0,5 đến 3 trường hợp trên 100.000 dân mỗi năm. Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc mới hàng năm vào khoảng 0,1 trên 100.000 dân. Đây là một bệnh có tiên lượng rất xấu với tỷ lệ sống sót sau 5 năm của nhóm bệnh nhân giai đoạn tiến triển tại chỗ hoặc đã di căn là dưới 5%.
Ảnh minh họa của một số thường gặp trong ung thư đường tiêu hóa.
Trong điều trị BTC giai đoạn tiến xa di căn, phác đồ hoá trị Gemcitabin-Cisplatin được coi là điều trị chuẩn trong hơn 10 năm qua (nghiên cứu ABC-02). Liệu pháp miễn dịch đang thay đổi liệu pháp điều trị cho nhiều bệnh nhân BTC, được chứng minh qua các nghiên cứu pha III như nghiên cứu TOPAZ 01 (Durvalumab + GEMCIS), nghiên cứu KEYNOTE-966 (Pembrolizumab + GemCis), nghiên cứu KEYNOTE-158.
Nghiên cứu TOPAZ 01 so sánh việc sử dụng Durvalumab + GEMCIS với GEMCIS + placebo đã giúp cải thiện trên cả 3 tiêu chí thời gian sống thêm toàn bộ (OS), thời gian sống thêm không bệnh tiến triển (PFS), tỷ lệ đáp ứng toàn bộ (ORR). Kết quả cho thấy: trung vị OS 12.8 tháng so với 11,5 tháng ở nhóm durvalumab so với giả dược, HR = 0,80 với P = 0,021; Tỷ lệ sống sót chung ước tính sau 24 tháng là 24,9% đối với durvalumab và 10,4% đối với giả dược, HR= 0,75 với P = 0,001; Tỷ lệ đáp ứng toàn bộ là 26,7% với GEMCIS + durvalumab và 18,7% với giả dược). Cập nhật mới năm 2023 cho thấy Durva + Gemcis cải thiện OS và ORR lâu dài: OS 3 năm là 14,6%, hiệu quả đồng nhất ở bất kể giai đoạn bệnh, vị trí xuất phát ung thư, tình trạng viêm gan và vùng địa lý. Do đó Durvalumab + GEMCIS được khuyến cáo điều trị bước đầu cho những bệnh nhân BTC giai đoạn tiến xa di căn không thể cắt bỏ, được đưa vào hướng dẫn thực hành của NCCN, ESMO.
Trong nghiên cứu KEYNOTE-966, kết hợp pembrolizumab với gemcitabine và cisplatin (GemCis) đã được đánh giá trên bệnh nhân ung thư đường mật. Với thời gian theo dõi trung bình là 25,6 tháng (IQR: 21,7–30,4), nhóm sử dụng pembrolizumab đạt thời gian sống còn toàn bộ (OS) trung vị là 12,7 tháng (KTC 95%: 11,5–13,6), so với 10,9 tháng (KTC 95%: 9,9–11,6) ở nhóm dùng giả dược (HR = 0,83; KTC 95%: 0,72–0,95; p = 0,0034). Tuy nhiên, chưa ghi nhận sự cải thiện rõ rệt về thời gian sống không tiến triển (PFS) giữa hai nhóm.
Ảnh minh họa Bệnh nhân ung thư đường mật thường xuất hiện các cơn đau bụng vùng hạ sườn phải
Kết quả này cho thấy pembrolizumab kết hợp với GemCis có thể là một lựa chọn điều trị mới, tiềm năng cho những bệnh nhân BTC giai đoạn di căn hoặc không thể phẫu thuật, chưa từng điều trị trước đó. Phác đồ này hiện đã được đưa vào hướng dẫn thực hành lâm sàng của NCCN như một lựa chọn được khuyến cáo.
Trong điều trị bước hai cho bệnh nhân ung thư đường mật giai đoạn tiến xa, phác đồ FOLFOX (5-fluorouracil, leucovorin và oxaliplatin) được xem là lựa chọn ưu tiên, dựa trên kết quả từ nghiên cứu ABC-06, cho thấy hiệu quả cải thiện thời gian sống còn so với chăm sóc hỗ trợ đơn thuần.
Bên cạnh đó, các lựa chọn điều trị bước hai ngày càng được cá thể hóa, dựa trên đặc điểm dấu ấn sinh học phân tử của khối u. Một số đột biến hoặc bất thường di truyền có thể định hướng điều trị nhắm trúng đích bao gồm:
– FGFR2 (tái sắp xếp hoặc hợp nhất gen) – có thể chỉ định thuốc ức chế FGFR như pemigatinib hoặc futibatinib.
– HER2 (tăng biểu hiện hoặc khuếch đại gen) – có thể cân nhắc liệu pháp kháng HER2 như trastuzumab ± pertuzumab hoặc các ADC như trastuzumab deruxtecan.
– NTRK fusions – có thể điều trị bằng các thuốc ức chế TRK như larotrectinib hoặc entrectinib.
– RET fusions – có thể sử dụng các thuốc ức chế RET như selpercatinib hoặc pralsetinib.
Việc thực hiện giải trình tự gen khối u (NGS) được khuyến cáo để sàng lọc các bất thường phân tử, từ đó mở rộng cơ hội tiếp cận các liệu pháp nhắm trúng đích hiệu quả và phù hợp với từng bệnh nhân. Việc điều trị ung thư đường mật giai đoạn tiến triển gặp nhiều khó khăn do tính chất ác tính cao, kém nhạy cảm với hóa chất, tuy nhiên với sự phát triển của Y học hiện đại, nhắm đích phân tử, miễn dịch đã mở ra nhiều cơ hội cho bệnh nhân, giúp cải thiện chất lượng cuộc sống cũng như kéo dài thời gian sống cho người bệnh.
Tại Bệnh viện Ung Bướu Nghệ An, các thuốc điều trị miễn dịch như Atezolizumab, Pembrolizumab, Durvalumab… đã được đưa vào sử dụng trong lâm sang bước đầu cho thấy hiệu quả tích cực , góp phần cải thiện tiên lượng và chất lượng cuộc sống người bệnh.
Với việc tiếp cận các liệu pháp điều trị tiên tiến và đội ngũ y bác sĩ chuyên môn cao, Bệnh viện Ung Bướu Nghệ An đang trở thành một địa chỉ tin cậy không chỉ cho người dân trong tỉnh mà còn cho bệnh nhân từ các khu vực lân cận, có nhu cầu khám và điều trị ung thư hiện đại, hiệu quả theo các hướng dẫn cập nhật trong nước và quốc tế./.
Tác giả: BS Nguyễn Thị Hà – Khoa nội 3 – Bệnh viện Ung bướu Nghệ An