Các yếu tố nguy cơ gây ung thư thực quản

Theo Globocan 2022, trên thế giới mỗi năm có hơn 510.000 ca mắc mới Ung thư thực quản (UTTQ) và hơn 445.000 ca tử vong. Tại Việt Nam, Ung thư thực quản đứng thứ 12 trong các loại ung thư thường gặp

1. Các yếu tố nguy cơ gây ung thư thực quản

Các nhà khoa học đã tìm ra một số yếu tố nguy cơ có thể ảnh hưởng khả năng mắc bệnh ung thư thực quản. Một số yếu tố có có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư biểu mô tuyến của thực quản và số khác làm tăng khả năng bị ung thư biểu mô vảy của thực quản.

Hình 1: Các yếu tố nguy cơ gây ung thư thực quản

Tuy nhiên, khi có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ không có nghĩa là bạn sẽ bị ung thư thực quản. Và một số người mắc căn bệnh này có thể không gặp bất kỳ yếu tố nguy cơ nào cả. Dưới đây là một số yếu tố nguy cơ có thể kể đến.

Tuổi – Giới: Nguy cơ mắc bệnh ung thư thực quản tăng theo tuổi tác. Các nhà khoa học đã thống kê dưới 15% các ca mắc ở độ tuổi dưới 55. Ngoài liên quan tuổi tác thì giới tính cũng ảnh hưởng tới tỷ lệ mắc ung thư thực quản, thường gặp ở nam giới hơn, với tỷ lệ nam: nữ là 4:1.

Thuốc lá và rượu bia: Việc sử dụng các sản phẩm thuốc lá như: thuốc lá điếu, xì gà, hút tẩu hay thuốc lá nhai là một nguy cơ chính của thư thực quản. Những người hút thuốc lá càng nhiều và hút trong một thời gian dài thì nguy cơ mắc ung thư thực quản càng cao. Mỗi ngày hút trên 1 bao thuốc lá làm tăng gấp đôi nguy cơ ung thư biểu mô tuyến  thực quản so với người không hút, và nguy cơ này sẽ không biến mất kể cả khi bạn đã bỏ hút thuốc lá. Còn đối với ung thư biểu mô vảy thực quản, người ta thấy rằng có mối liên quan mạnh mẽ hơn với hút thuốc lá, tuy nhiên nguy cơ này sẽ giảm xuống nếu bạn bỏ hút thuốc lá.

Sử dụng rượu bia cũng làm tăng nguy cơ ung thư thực quản. Uống rượu bia thường xuyên và với số lượng càng nhiều thì nguy cơ ung thư thực quản càng cao. Rượu bia làm tăng nguy cơ ung thư biểu mô vảy hơn so với ung thư biểu mô tuyến ở thực quản.

Người vừa hút thuốc lá, vừa uống nhiều rượu bia thì càng làm tăng nguy cơ ung thư thực quản, đặc biệt là loại ung thư biểu mô vảy.

Hình 2: Rượu bia, thuốc lá là yếu tố nguy cơ cao gây ung thư thực quản

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản: Khi hoạt động bình thường, dạ dày tiết ra axit mạnh và các enzym để giúp tiêu hóa thức ăn. Ở một số người, axit có thể thoát ra khỏi dạ dày, đi ngược lên vào đoạn dưới của thực quản, gây nên bệnh trào ngược dạ dày thực quản (Gastroesophageal reflux disease: GERD). Hầu hết mọi người mắc chứng trào ngược đều có các biểu hiện như: ợ chua, nóng hoặc đau ở vùng giữa ngực. Tuy nhiên, ở một số bệnh nhân thì trào ngược hoàn toàn không gây ra bất kỳ triệu chứng nào.

Những người bị trào ngược làm tăng nguy cơ mắc ung thư thực quản, đặc biệt là ung thư biểu mô tuyến. Mặc dù bệnh trào ngược dạ dày thực quản rất phổ biến, nhưng thật may mắn là hầu hết những người mắc bệnh này không phát triển thành ung thư thực quản. Trào ngược cũng có thể gây ra Barrett thực quản, đây là yếu tố nguy cơ cao hơn gây nên ung thư thực quản.

Barrett Thực quản: Barrett thực quản là bệnh lý thường xuất hiện ở những người mắc chứng trào ngược dạ dày thực quản lâu năm. Nếu hiện tượng trào ngược axit dạ dày vào đoạn dưới thực quản diễn ra liên tục trong thời gian dài, nó có thể làm tổn thương lớp niêm mạc bên trong của thực quản. Điều này khiến các tế bào vảy thường lót bên trong niêm mạc thực quản được thay thế bằng các tế bào biểu mô tuyến. Các tế bào tuyến này trông giống như các tế bào lót ở niêm mạc dạ dày và ruột non, chúng có khả năng chống lại axit dạ dày cao hơn. Tình trạng này được gọi là bệnh Barrett thực quản.

Ảnh minh họa: Barrett thực quản

Hầu hết những người bị Barrett thực quản đều có triệu chứng ợ chua nóng, nhưng nhiều người cũng không có triệu chứng gì. Người bị Barrett thực quản có nguy cơ cao hơn nhiều phát triển ung thư biểu mô tuyến thực quản so với những người không có tình trạng này. Tuy nhiên, nếu bạn bị bệnh Barrett thì đừng quá lo lắng vì hầu hết những người bị bệnh này không hẳn tiến triển thành ung thư thực quản.

Béo phì: Những người thừa cân hoặc béo phì có nguy cơ cao bị ung thư biểu mô tuyến thực quản. Điều này một phần cũng là do những người béo phì hoặc thừa cân thường dễ mắc chứng trào ngược dạ dày thực quản.

Chế độ ăn uống thiếu lành mạnh: Một số chất có trong chế độ ăn uống của bạn có thể làm tăng nguy cơ ung thư thực quản. Ví dụ, đã có những kết luận dù chưa được chứng minh rõ ràng rằng chế độ ăn nhiều thịt chế biến sẵn có thể làm tăng nguy cơ ung thư thực quản. Và như bạn thấy, ở các nước phát triển có tỷ lệ cao tiêu thụ sản phẩm chế biến sẵn từ thịt cũng có tỷ lệ cao hơn mắc bệnh ung thư biểu mô tuyến thực quản.

Ngoài ra, chế độ ăn với nhiều trái cây và rau quả có thể làm giảm nguy cơ ung thư thực quản. Lý do chính xác cho điều này còn chưa rõ ràng, nhưng trong trái cây và rau quả có một số vitamin và khoáng chất có thể giúp ngăn ngừa ung thư.

– Việc thường xuyên sử dụng các đồ uống quá nóng (nhiệt độ trên 65 °C ) có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư thực quản dạng tế bào vảy. Điều này có thể là kết quả của việc các tế bào lót thực quản bị tổn thương trong một thời gian dài do chất lỏng quá nóng.

Một số yếu tố nguy cơ khác: bệnh co thắt thực quản, tiền sử cắt dạ dày, viêm dạ dày thể teo đét, HPV, bệnh tăng tạo chai lòng bàn tay, bàn chân, dùng thuốc Biphosphonate và mắc ung thư đường hô hấp trên.

2. Triệu chứng bệnh Ung thư thực quản

Ở giai đoạn đầu, triệu chứng báo hiệu thường không đặc hiệu:

– Bệnh nhân có thể có cảm giác thức ăn dính, khó nuốt, nhưng vẫn nuốt được nếu nhai kỹ.

– Một số bệnh nhân có cảm giác nóng rát, khó chịu sau xương ức.

Hình 3: Minh họa cảm giác khó nuốt, nuốt nghẹn, vướng sau xương ức … biểu hiện dễ thấy ở bệnh ung thư thực quản

Ở giai đoạn tiến triển tại chỗ:

– Nghẹn thức ăn đặc tăng dần gây ra do khối u bít tắc lòng thực quản.

– Sút cân liên quan tới nuốt nghẹn, tới thay đổi chế độ ăn và sự phát triển của khối u.

– Trào ngược nước bọt hoặc thức ăn: gặp ở một số bệnh nhân giai đoạn tiến triển.

– Có thể gặp viêm phổi do trào ngược.

– Khàn tiếng nếu dây thần kinh thanh quản quặt ngược bị u xâm lấn.

– Thiếu máu, thiếu sắt do mất máu mạn tính từ khối u là dấu hiệu rất thường gặp.

– Ít khi có biểu hiện nôn ra máu, đi ngoài phân đen, hay trào ngược ra dịch có máu. Xuất huyết tiêu hóa ồ ạt xảy ra khi u ăn mòn động mạch chủ, phổi hay động mạch phế quản.

– Dò khí quản là biến chứng muộn của bệnh, xảy ra khi ung thư xâm lấn trực tiếp từ lòng thực quản vào lòng khí quản (đường thở, nằm ngay phía trước thực quản trong lồng ngực). Bệnh nhân ho không kiểm soát được và thường xuyên viêm phổi. Thời gian sống thêm của những bệnh nhân này là dưới 4 tuần.

Ung thư thực quản có thể dự phòng nếu chúng ta phòng tránh được các yếu tố nguy cơ nói trên. Bên cạnh đó các bệnh nhân có yếu tố nguy cơ nên đi nội soi dạ dày thực quản định kỳ để phát hiện sớm và điều trị kịp thời ung thư thực quản./.

  Tác giả: BS. Nguyễn Thị Hiếu – Khoa Nội 1 – Bệnh viện Ung bướu Nghệ An

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *