Xạ trị là phương pháp sử dụng các chùm tia bức xạ ion hóa – thường là tia X năng lượng cao hoặc các hạt proton – để tiêu diệt hoặc làm teo nhỏ tế bào ung thư. Nguyên lý hoạt động của xạ trị dựa trên việc phá hủy DNA của tế bào, khiến tế bào ung thư không thể tiếp tục phân chia và chết đi theo chu trình tự nhiên.
Có ba phương pháp chính trong xạ trị hiện đại
1. Xạ trị bằng chùm tia ngoài (External Beam Radiotherapy – EBRT): Đây là phương pháp phổ biến nhất, sử dụng các thiết bị máy gia tốc tuyến tính (LINAC) để chiếu tia từ bên ngoài cơ thể vào vị trí khối u.
2. Xạ trị áp sát (Brachytherapy): Đưa nguồn phóng xạ vào gần hoặc trong khối u, phổ biến trong điều trị ung thư cổ tử cung, tuyến tiền liệt…
3. Xạ trị chuyển hóa – chiếu trong (Systemic Radiotherapy): Sử dụng các dược chất phóng xạ tiêm vào cơ thể, đi đến các tế bào ung thư qua hệ tuần hoàn – thường dùng trong các ung thư di căn xương hoặc tuyến giáp.
Những kỹ thuật xạ trị đang được triển khai tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An
Là bệnh viện chuyên khoa tuyến cuối khu vực Bắc Trung Bộ, Bệnh viện Ung bướu Nghệ An đã đưa vào vận hành hai hệ thống xạ trị tiên tiến Elekta Precise và Elekta Synergy Platform từ năm 2019. Với đội ngũ chuyên môn cao và thiết bị hiện đại, bệnh viện hiện đang triển khai 03 kỹ thuật xạ trị trong điều trị ung thư:
– Xạ trị ba chiều theo hình thái khối u (3D-CRT)
– Xạ trị điều biến liều (IMRT)
– Xạ trị chuyển hóa – chiếu trong với Iod-131 (áp dụng trong điều trị ung thư tuyến giáp)
Trong đó, hai kỹ thuật 3D-CRT và IMRT được thực hiện trên hệ thống máy gia tốc Elekta, còn xạ trị chuyển hóa bằng Iod-131 được triển khai như một phương pháp độc lập, sử dụng dược chất phóng xạ đường toàn thân.
1. Xạ trị 3D – 3D Conformal Radiotherapy (3D-CRT)
Đây là bước đệm quan trọng trong quá trình hiện đại hóa xạ trị. Với sự hỗ trợ của hệ thống mô phỏng, máy tính và các phần mềm lập kế hoạch, bác sĩ có thể xây dựng mô hình 3 chiều của khối u và cơ quan lân cận, từ đó thiết kế các chùm tia phù hợp.
Kỹ thuật này sử dụng hệ thống lá chì đa hình (MLC) để tạo hình chùm tia đúng theo cấu trúc khối u. Nhờ đó, tia xạ tập trung vào mục tiêu, giảm ảnh hưởng đến mô lành xung quanh.
2. Xạ trị điều biến liều – Intensity-Modulated Radiotherapy (IMRT)
IMRT là một bước tiến quan trọng, cho phép điều chỉnh cường độ từng chùm tia sao cho phù hợp nhất với hình dạng phức tạp của khối u. IMRT sử dụng từ 7–9 trường chiếu, mỗi trường bao gồm nhiều segment nhỏ để phân bố liều tối ưu.
Ưu điểm của IMRT là tăng liều vào vùng u, giảm liều vào cơ quan lành, nhờ đó hạn chế biến chứng và nâng cao hiệu quả điều trị.
3. Xạ trị chuyển hóa – xạ trị chiếu trong với Iod-131
Điều trị ung thư tuyến giáp bằng Iod phóng xạ (RAI) là phương pháp xạ trị trong sử dụng I-131 để tiêu diệt các tế bào ung thư, còn được gọi là liệu pháp iod phóng xạ hay xạ trị I-131.
I-131 được xem là chất kích thích tuyến giáp sản xuất hormone và là hoạt chất giúp điều trị bệnh ung thư tuyến giáp hiệu quả.
Các tinh thể iod phóng xạ khi đi vào cơ thể sẽ phát ra các tia xạ để các tế bào ung thư hấp thụ và từ đó chúng sẽ tiêu diệt tế bào ung thư để điều trị bệnh tốt hơn.
Ngoài ra, iod phóng xạ còn có vai trò giúp chúng ta chẩn đoán ung bướu, ung thư tuyến giáp để sớm phát hiện được bệnh để việc điều trị có kết quả khả quan hơn. Iod phóng xạ cũng được dùng cho những bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư tuyến giáp thuộc nhóm nguy cơ cao. Nhằm mục đích phát hiện, kiểm soát tình hình tái phát của người bệnh.
Với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật, xạ trị ngày càng trở nên chính xác, an toàn, hiệu quả và thân thiện với người bệnh. Không chỉ có vai trò trong điều trị triệt căn, xạ trị còn là giải pháp hỗ trợ điều trị triệu chứng, nâng cao chất lượng sống cho bệnh nhân giai đoạn muộn.
Tác giả: KS. Nguyễn Văn Việt – Khoa Vật lý xạ trị, Bệnh viện Ung bướu Nghệ An
Hiệu đính: Ths. KS. Đào Anh Nhất – Trưởng Khoa Vật lý xạ trị, Bệnh viện Ung bướu Nghệ An